Thế giới âm nhạc muôn mầu muôn vẻ. So với tiến trình phát triển của nhiều loại nhạc cụ, từ hơn một thế kỷ qua, cây ghi-ta đã đi những bước ngoạn mục, chiếm lĩnh nhiều sân khấu khác nhau trong đời sống âm nhạc. Ghi-ta đã trở thành nhạc cụ để biểu diễn hay trình tấu nhạc cổ điển thì chúng ta ai cũng đã biết. Nhưng ghi-ta đã vinh danh cho âm nhạc Tây Ban Nha trở thành một dòng nhạc cụ thể bên những Pop - Rock - Blue hay Country thì chẳng mấy ai ý thức. Bất ngờ hơn nữa là ghi-ta đã đi vào làn điệu tango từ bao giờ thì chúng ta hầu như không ai để ý.
Tango vốn bắt nguồn từ nhiều điệu nhảy khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc nói chung và tango nói riêng thì năm 1999 người ta đã có thể kỷ niệm tròn một thế kỷ ngày sinh của nó (1). Tango ra đời tại châu Mỹ La Tinh, vùng Río de la Plata, nơi con sông Paraná đổ ra biển, giữa Uruguay và Achentina. Ngày nay tango đã trở nên một loại hình âm nhạc không thể tách rời với tên tuổi thủ đô của hai quốc gia ở trên là Montevideo và Buenos Aires. Tango ngày nay cũng mang đậm nét văn hóa của nhiều vùng khác thuộc châu Mỹ Latinh.
Đầu thế kỷ 20, từ những năm 1910, tango chuyển mình sang châu Âu, nó nhanh chóng trở thành một trong những loại hình âm nhạc được phổ biến và yêu thích nhất. Cho đến những năm giữa của thập niên 60, tango bước vào kì khủng hoảng. Và cuối thế kỷ 20 tango lại một lần nữa bùng dậy với nhiều thể hiện cách tân của nhà cách mạng tango Astor Piazzolla. tango đã sải những bước dài vuợt qua mọi thăng trầm, vượt lên mọi điều tiếng, vượt mọi tầng lớp xã hội, đi vào lòng người yêu âm nhạc những bước đằm thắm. tango không còn chỉ là riêng một điệu nhảy, tango đã trở thành riêng một loại hình âm nhạc, tango có mặt cả trong những dàn nhạc giao hưởng, đi vào các vùng âm nhạc cổ điển cho tới hiện đại, tango không lời, không bước nhảy vẫn lên ngôi… tango đã tạo nên cả một thế giới riêng cho chính bản thân nó. Theo Academia Nacional del tango tại Buenos Aires thì có tới trên dưới 15.000 bản tango khác nhau. Trong đó khoảng 1/3 là những bản nhạc tình.
Về nhạc lí, tango ban đầu vốn là nhạc không lời, cho đến những năm 1910, người ta bắt đầu đặt lời cho các bài hát tango và viết ra những bản nhạc tango với lời ca. Ban đầu, tango được sáng tác dựa theo nhịp 2/4, sau này tango trở nên buồn hơn và thường đổi qua với nhịp 4/4 hay 4/8. Người ta cũng đã thu âm nhiều tác phẩm được trình diễn với lối hòa âm trong cùng một tác phẩm. tango bắt nguồn từ nhiều làn điệu khác nhau như Habanera của Cuba, Mazurka Ba Lan, hay Milonga, Candombe... Đầu thế kỷ XX, cây đàn Bandoneon (2), một phát minh của người Đức, đã tràn sang châu Mỹ Latinh và trở thành một thứ nhạc cụ chính trong những ban nhạc tango.
Từ buổi sơ khai, cây đàn ghi-ta đã chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các ban nhạc tango, thường là với ba hoặc bốn tay đàn. Sau này, ghi-ta phải lùi dần, nhường chỗ cho Bandoneon hay các dàn nhạc tango với Violin, với Cello và dương cầm… Thế nhưng cả thời gian dài, ghi-ta vẫn là nhạc cụ quan trọng cho các buổi trình diễn tango độc hành. Năm 1955, Astor Piazzolla cũng là người đầu tiên đã đưa cây ghi-ta điện vào biểu diễn tango. Từ khi âm nhạc Tây Ban Nha và âm nhạc vùng văn hóa Mỹ Latinh lên ngôi cùng với chiếc đàn thùng, ghi-ta lại xuất hiện thường xuyên hơn nữa bên cạnh các nhạc cụ khác trong dàn nhạc tango. Rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã góp công xây dựng nên loại hình âm nhạc này mà tên tuổi của họ gắn liền với cây đàn gỗ sáu dây như Carlos Gardel, Luciano Rios, Enrique Maciel…
La Morocha có lẽ là bản tango đầu tiên có lời ca. Tác giả ca từ của nó cũng không phải ai xa lạ - Angel Gregorio Villoldo. Angel Villoldo còn là tác giả của El Choclo một trong hai bản tango nổi tiếng nhất thế giới. Angel Villoldo người Achentina, ông đã từng hành nhiều nghề khác nhau như hề xiếc, thợ sắp chữ nhà in, nhà thơ, soạn giả ca từ cho các vở nhạc kịch và đương nhiên ông còn là một nhạc sĩ, một nhà soạn nhạc có hạng của nền âm nhạc Achentina. Ông viết El Choclo vào năm 1903 (3). Theo Antología del tango rioplatense, vol. 1, Instituto Nacional de Musicología Carlos Vega phát hành năm 1981 thì El Choclo được thu âm lần đầu tiên vào năm 1910 với dàn nhạc Orquesta Típica Portena dưới sự điều khiển của Eduardo Arolas. Trong bản thu âm này, giai điệu Habanera được chơi trên những dây bass của đàn ghi-ta. El Choclo cũng đã được nhiều danh cầm ghi-ta kiêm soạn giả nổi tiếng thế giới như Jorge Morel hay Roland Dyens chuyển soạn thành những bản nhạc độc tấu ghi-ta vô cùng đặc sắc. Roland Dyens giữ nhịp 2/4 và căng đàn hai dây D.
Ban đầu, El Choclo được một nhà thơ vô danh nào đó viết thêm cho một phần lời và nó thường được mang ra ca tại các nhà thổ. Sau này phần lời thất lạc. Đến khoảng năm 1930, Irene Villoldo, em gái của Angel Villoldo, đã nhờ Juan Carlos Marambio viết lại phần lời. Nhưng lời ca của Juan Carlos không mấy thành công. Mãi cho đến năm 1947, dưới sự hợp tác của Enrique Santos và Juan Carlos, El Choclo mới có phần ca từ như ngày nay nó thường được trình diễn. El Choclo nghĩa tiếng Việt là "Cái bắp ngô (4)“(ND), người ta dịch ra tiếng Anh dưới tựa đề "Kiss of fire" - Nụ hôn lửa (ND). Angel Villoldo là người góp nhiều công sức, có nhiều ảnh hưởng đến lịch sử phát triển của tango vào đầu thế kỷ XX cũng như công cuộc mở đường cho tango du ngoạn sang các vùng văn hóa phát triển cao khác ở châu Âu. Ông mất năm 1919, dánh dấu sự kết thúc một giai đoạn quan trọng trong dòng nhạc tango.
Bản tango thứ hai mà chúng tôi muốn giới thiệu với các bạn là tác phẩm La Cumparsita - Đoàn vũ hội hoá trang (ND) - của Gerardo Hernán Matos Rodríguez, bản nhạc có một không hai, nổi tiếng trong lịch sử tango. Cũng như El Choclo, "Đoàn vũ hội hoá trang“ được chàng sinh viên nghèo ở Montevideo sáng tác trên dương cầm vào năm 1916 (5) dưới hình thức một bản nhạc không lời. Sau đó, vào khoảng những năm 1924 La Cumparsita được Enrique Maroni và Pascual Contursi viết thêm phần lời rồi tự động đổi tên thành Si Supieras. Matos Rodríguez mất gót nghét 20 năm trời ra chầu tòa để đòi lại được bản quyền của nó. Người ta có thể viết cả một cuốn tiểu thuyết về những năm tháng “vô gia cư“ kiện tụng đình đám kéo dài của La Cumparsita, y như về chính danh tiếng của nó vậy.
Cả hai soạn giả kiêm danh cầm người Tây Ba Nha là Paco de Lucia và Pepe Romero đều đã soạn La Cumparsita ra cho đàn ghi-ta solo, cùng trình diễn và thu âm tác phẩm nhiều lần. La Cumparsita của Pepe Romero thì luyến láy huyền ảo trong chất điệu thơ mộng, nhịp nhàng. La Cumparsita của ông vua Flamenco Paco de Lucia thì bốc lửa, chắc nịch, thoăn thuắt những cú xoay chuyển thân hình hay gọn gàng những bước nồng nàn khêu gợi. Nhạc sĩ lão thành Phạm Duy, một cây đại thụ trong nền tân nhạc Việt Nam ta cũng đã từng đặt lời cho bản tango bất hủ này dưới tựa đề "Vũ nữ thân gầy". Người ta đã thống kê, La Cumparsita có đến cả 200 phiên bản khác nhau. Số lượng những bản soạn cho đàn ghi-ta của nó chắc cũng không kém.
Cùng với hai tác phẩm tango nổi tiếng đã được chuyển soạn sang cho đàn ghi-ta xin giới thiệu với các bạn hai tác phẩm tango khác cũng rất nổi tiếng. Điều đặc biệt vui mừng là chúng đã được các soạn giả viết riêng từ cơ bản của cây đàn ghi-ta. Hai tác phẩm này được viết ra cách nhau ước chừng cũng non một thế kỷ. Một cổ điển và một hiện đại.
Tango của Francisco Tarrega (6) là một bản tango mang đậm nét truyền thống. Bản này chơi cung Xi giáng, nhịp 2/4, căng đàn hai dây Son và hai dây Re. Nếu dùng Capo chặn ngăn thứ hai thì vẫn chơi được bản tango này với bộ dây tiêu chuẩn. Âm nhạc của F.Tarrega bao giờ cũng thế, dẫu là tango, nó vẫn đặc biệt trữ tình, quyến rũ. Thật ngạc nhiên biết chừng nào khi người ta nhìn vào lịch sử bao quát của tango, không ngờ F.Tarrega đã sáng tác nên một bản tango tuyệt vời như thế ở thời điểm mà ngay chính tango vẫn còn đang vào kì trứng nước của sự phát triển. Tango của F.Tarrega là một bản nhạc đã nghe rồi thì không thể không học. Học Tango của F.Tarrega cũng như học bao bản nhạc khác của ông. Chơi mãi chơi hoài mà vẫn mới, học đi học lại, nắn nót từng nốt một mà vẫn không xong.
Tango của F.Tarrega là thế. Còn theo Roland Dyens, chủ nhân của bản Tango en Skaï thì vốn dĩ Tango en Skaï (chữ I có hai chấm trên đầu) chỉ là một "cú bông đùa". Sau khi tàn một cuộc vui vào năm 1978, ngẫu hứng ông ôm đàn, tấu bịa tặng bạn bè khách khứa một bản tango. Bảy năm sau, do bạn bè vừa khuyên vừa ép, Roland Dyens đã để nhà xuất bản Lemoine ấn hành. Tango en Skai chính thức mở cửa chào đời năm 1985 tại Paris. Tango en Skaï quả giống với một "trò đùa". Chơi Tango en Skaï cứ giống người ta đang nghịch đàn theo lối cao cấp vậy. Đúng hơn thì chơi Tango en Skai giống như biểu diễn một bài túy quyền, tỉnh trong cơn say và say ngay trong cả một nốt nhạc tỉnh khô cơ bản nhất. Chính giai điệu của nó cũng ngất ngưởng, nửa tỉnh nửa say rồi. Tango en Skaï còn được chuyển soạn thành tác phẩm cho dàn nhạc hợp xướng, được thu âm, trở thành một tác phẩm được trình diễn như một món quà tặng cho lòng ái mộ âm nhạc của công chúng khán thính giả sau những đêm diễn vậy. Roland Dyens không chỉ là tác giả của một bản Tango en Skai nổi tiếng, ông còn chuyển soạn hai bản tango nổi tiếng thế giới sang cho đàn ghi-ta rất thành công. Một bản người viết bài này được dịp nhắc tới ở phần trên bài viết này, bản còn lại là Adiós Muchachos. Bản này ông đề tặng Carlos Gardel, một ca sĩ, một nghệ sĩ tango đã quá cố.
Bên cạnh những tác phẩm ấy còn tồn tại một Tổ khúc tango (tango suite – ND) khá nổi tiếng của Astor Piazzolla viết riêng tặng đôi song tấu ghi-ta hàng đầu thế giới người Brasil, anh em Sérgio và Odair Assad. Có lẽ đó là một trong những tác phẩm trình diễn khó vào bậc nhất dành cho các đôi song tấu. Anh em nhà Assad cũng như nhiều danh cầm khác trên thế giới còn chuyển soạn nhiều tác phẩm tango của A.Piazzolla sang cho đàn ghi-ta. A.Piazzolla là nhà cách mạng tango. Tuy xung quanh những tác phẩm của ông còn gây nhiều tranh cãi nhưng tên tuổi ông đã gắn liền với kỉ phục hưng, bước trở lại với đời sống âm nhạc của tango vào thập nhiên 80. Ông mất năm 1992, để lại cho chúng ta hơn 350 tác phẩm lớn nhỏ khác nhau, trong đó có những tác phẩm tango rất nổi tiếng như Adíos Nonino, Vuelvo al sur… A.Piazzola còn để lại một bộ tổ khúc khác cũng nổi tiếng, viết cho sáo và đàn ghi-ta với những tác phẩm rất hay được trình tấu bằng ghi-ta như Quán cà phê 1930 hay Câu lạc bộ đêm 1960 (ND)…
Còn biết bao tác phẩm khác mà khi viết về tango, người ta không thể không nhắc đến như La yumba, Mi noche triste hay La bordona hay Nostalgias… Và còn vô vàn tên tuổi những soạn giả, những nhà văn thơ, nhà báo hay những nhạc sĩ, nghệ sĩ, những người đã góp công xây dựng và phục hưng thế giới tango mà chúng ta cũng không thể không viết về họ như Carlos Gardel, Carlos José Pérez, Pascual Contursi, hay nghệ sĩ dương cầm Manuel O. Campoamor soạn giả tác phẩm El sargento cabral, hay như Rosendo Mendizábal cha đẻ của El entrerriano, những tác phẩm nền móng mở ra hướng phát triển cho tango của chúng ta ngày nay.
Đành thất lỗi với công lao đóng góp của bao danh nhân nghệ sĩ nhưng trong khuôn khổ giới hạn của bài viết này, chúng tôi không thể tiếp tục đi sâu nghiên cứu hay phân tích tỉ mỉ thêm về đặc thù và lịch sử của riêng tango, cũng như chúng tôi không thể tiếp tục giới thiệu cùng bạn đọc một danh sách dài đến bất tận những tác phẩm nổi tiếng của loại hình âm nhạc đặc sắc này. Chúng tôi chỉ lướt qua, sơ bộ đôi dòng về tango nói chung và nhấn mạnh vào chủ đề tango trên cây đàn ghi-ta như vậy. Nhằm giới thiệu đến bạn đọc, những bạn đang học tập hay yêu mến gắn bó cùng cây đàn ghi-ta, những bản tango bất hủ đã được viết trực tiếp hay đã được chuyển soạn cho cây đàn ghi-ta. Đại diện trên ấy là sự tuyển chọn đã được công chúng chắt lọc qua thời gian có pha đôi dòng đánh giá chủ quan của tác giả bài viết. Chính bản thân tác giả, hai mươi năm, nhớ rồi quên rồi lại nhớ. Những bản tango cũng chuyển từ ghi-ta sang những mảnh đĩa nhựa, đĩa từ rồi lại chạy về uốn éo vặn vẹo lướt trên sáu sợi dây đàn. Tango vẫn luôn mới lạ bất ngờ.
Thế giới tango muôn mầu muôn vẻ và vô cùng phong phú. Ban đầu tiếp xúc với tango qua những tác phẩm trữ tình trên, chúng ta sẽ thêm yêu mến và gắn bó với tango, với cây đàn ghi-ta. Biết đâu mai nay trên bước đường đời, tài năng và tình yêu sẽ giúp các bạn cùng với cây đàn chinh phục trọn vẹn trái tim của khán thính giả trên sàn diễn tango, trinh phục cả những vùng đất mới lạ đang mở ra trong thế giới âm nhạc đến mê hồn kỳ ảo kia.
Tango vốn bắt nguồn từ nhiều điệu nhảy khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc nói chung và tango nói riêng thì năm 1999 người ta đã có thể kỷ niệm tròn một thế kỷ ngày sinh của nó (1). Tango ra đời tại châu Mỹ La Tinh, vùng Río de la Plata, nơi con sông Paraná đổ ra biển, giữa Uruguay và Achentina. Ngày nay tango đã trở nên một loại hình âm nhạc không thể tách rời với tên tuổi thủ đô của hai quốc gia ở trên là Montevideo và Buenos Aires. Tango ngày nay cũng mang đậm nét văn hóa của nhiều vùng khác thuộc châu Mỹ Latinh.
Đầu thế kỷ 20, từ những năm 1910, tango chuyển mình sang châu Âu, nó nhanh chóng trở thành một trong những loại hình âm nhạc được phổ biến và yêu thích nhất. Cho đến những năm giữa của thập niên 60, tango bước vào kì khủng hoảng. Và cuối thế kỷ 20 tango lại một lần nữa bùng dậy với nhiều thể hiện cách tân của nhà cách mạng tango Astor Piazzolla. tango đã sải những bước dài vuợt qua mọi thăng trầm, vượt lên mọi điều tiếng, vượt mọi tầng lớp xã hội, đi vào lòng người yêu âm nhạc những bước đằm thắm. tango không còn chỉ là riêng một điệu nhảy, tango đã trở thành riêng một loại hình âm nhạc, tango có mặt cả trong những dàn nhạc giao hưởng, đi vào các vùng âm nhạc cổ điển cho tới hiện đại, tango không lời, không bước nhảy vẫn lên ngôi… tango đã tạo nên cả một thế giới riêng cho chính bản thân nó. Theo Academia Nacional del tango tại Buenos Aires thì có tới trên dưới 15.000 bản tango khác nhau. Trong đó khoảng 1/3 là những bản nhạc tình.
Về nhạc lí, tango ban đầu vốn là nhạc không lời, cho đến những năm 1910, người ta bắt đầu đặt lời cho các bài hát tango và viết ra những bản nhạc tango với lời ca. Ban đầu, tango được sáng tác dựa theo nhịp 2/4, sau này tango trở nên buồn hơn và thường đổi qua với nhịp 4/4 hay 4/8. Người ta cũng đã thu âm nhiều tác phẩm được trình diễn với lối hòa âm trong cùng một tác phẩm. tango bắt nguồn từ nhiều làn điệu khác nhau như Habanera của Cuba, Mazurka Ba Lan, hay Milonga, Candombe... Đầu thế kỷ XX, cây đàn Bandoneon (2), một phát minh của người Đức, đã tràn sang châu Mỹ Latinh và trở thành một thứ nhạc cụ chính trong những ban nhạc tango.
Từ buổi sơ khai, cây đàn ghi-ta đã chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các ban nhạc tango, thường là với ba hoặc bốn tay đàn. Sau này, ghi-ta phải lùi dần, nhường chỗ cho Bandoneon hay các dàn nhạc tango với Violin, với Cello và dương cầm… Thế nhưng cả thời gian dài, ghi-ta vẫn là nhạc cụ quan trọng cho các buổi trình diễn tango độc hành. Năm 1955, Astor Piazzolla cũng là người đầu tiên đã đưa cây ghi-ta điện vào biểu diễn tango. Từ khi âm nhạc Tây Ban Nha và âm nhạc vùng văn hóa Mỹ Latinh lên ngôi cùng với chiếc đàn thùng, ghi-ta lại xuất hiện thường xuyên hơn nữa bên cạnh các nhạc cụ khác trong dàn nhạc tango. Rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã góp công xây dựng nên loại hình âm nhạc này mà tên tuổi của họ gắn liền với cây đàn gỗ sáu dây như Carlos Gardel, Luciano Rios, Enrique Maciel…
La Morocha có lẽ là bản tango đầu tiên có lời ca. Tác giả ca từ của nó cũng không phải ai xa lạ - Angel Gregorio Villoldo. Angel Villoldo còn là tác giả của El Choclo một trong hai bản tango nổi tiếng nhất thế giới. Angel Villoldo người Achentina, ông đã từng hành nhiều nghề khác nhau như hề xiếc, thợ sắp chữ nhà in, nhà thơ, soạn giả ca từ cho các vở nhạc kịch và đương nhiên ông còn là một nhạc sĩ, một nhà soạn nhạc có hạng của nền âm nhạc Achentina. Ông viết El Choclo vào năm 1903 (3). Theo Antología del tango rioplatense, vol. 1, Instituto Nacional de Musicología Carlos Vega phát hành năm 1981 thì El Choclo được thu âm lần đầu tiên vào năm 1910 với dàn nhạc Orquesta Típica Portena dưới sự điều khiển của Eduardo Arolas. Trong bản thu âm này, giai điệu Habanera được chơi trên những dây bass của đàn ghi-ta. El Choclo cũng đã được nhiều danh cầm ghi-ta kiêm soạn giả nổi tiếng thế giới như Jorge Morel hay Roland Dyens chuyển soạn thành những bản nhạc độc tấu ghi-ta vô cùng đặc sắc. Roland Dyens giữ nhịp 2/4 và căng đàn hai dây D.
Ban đầu, El Choclo được một nhà thơ vô danh nào đó viết thêm cho một phần lời và nó thường được mang ra ca tại các nhà thổ. Sau này phần lời thất lạc. Đến khoảng năm 1930, Irene Villoldo, em gái của Angel Villoldo, đã nhờ Juan Carlos Marambio viết lại phần lời. Nhưng lời ca của Juan Carlos không mấy thành công. Mãi cho đến năm 1947, dưới sự hợp tác của Enrique Santos và Juan Carlos, El Choclo mới có phần ca từ như ngày nay nó thường được trình diễn. El Choclo nghĩa tiếng Việt là "Cái bắp ngô (4)“(ND), người ta dịch ra tiếng Anh dưới tựa đề "Kiss of fire" - Nụ hôn lửa (ND). Angel Villoldo là người góp nhiều công sức, có nhiều ảnh hưởng đến lịch sử phát triển của tango vào đầu thế kỷ XX cũng như công cuộc mở đường cho tango du ngoạn sang các vùng văn hóa phát triển cao khác ở châu Âu. Ông mất năm 1919, dánh dấu sự kết thúc một giai đoạn quan trọng trong dòng nhạc tango.
Bản tango thứ hai mà chúng tôi muốn giới thiệu với các bạn là tác phẩm La Cumparsita - Đoàn vũ hội hoá trang (ND) - của Gerardo Hernán Matos Rodríguez, bản nhạc có một không hai, nổi tiếng trong lịch sử tango. Cũng như El Choclo, "Đoàn vũ hội hoá trang“ được chàng sinh viên nghèo ở Montevideo sáng tác trên dương cầm vào năm 1916 (5) dưới hình thức một bản nhạc không lời. Sau đó, vào khoảng những năm 1924 La Cumparsita được Enrique Maroni và Pascual Contursi viết thêm phần lời rồi tự động đổi tên thành Si Supieras. Matos Rodríguez mất gót nghét 20 năm trời ra chầu tòa để đòi lại được bản quyền của nó. Người ta có thể viết cả một cuốn tiểu thuyết về những năm tháng “vô gia cư“ kiện tụng đình đám kéo dài của La Cumparsita, y như về chính danh tiếng của nó vậy.
Cả hai soạn giả kiêm danh cầm người Tây Ba Nha là Paco de Lucia và Pepe Romero đều đã soạn La Cumparsita ra cho đàn ghi-ta solo, cùng trình diễn và thu âm tác phẩm nhiều lần. La Cumparsita của Pepe Romero thì luyến láy huyền ảo trong chất điệu thơ mộng, nhịp nhàng. La Cumparsita của ông vua Flamenco Paco de Lucia thì bốc lửa, chắc nịch, thoăn thuắt những cú xoay chuyển thân hình hay gọn gàng những bước nồng nàn khêu gợi. Nhạc sĩ lão thành Phạm Duy, một cây đại thụ trong nền tân nhạc Việt Nam ta cũng đã từng đặt lời cho bản tango bất hủ này dưới tựa đề "Vũ nữ thân gầy". Người ta đã thống kê, La Cumparsita có đến cả 200 phiên bản khác nhau. Số lượng những bản soạn cho đàn ghi-ta của nó chắc cũng không kém.
Cùng với hai tác phẩm tango nổi tiếng đã được chuyển soạn sang cho đàn ghi-ta xin giới thiệu với các bạn hai tác phẩm tango khác cũng rất nổi tiếng. Điều đặc biệt vui mừng là chúng đã được các soạn giả viết riêng từ cơ bản của cây đàn ghi-ta. Hai tác phẩm này được viết ra cách nhau ước chừng cũng non một thế kỷ. Một cổ điển và một hiện đại.
Tango của Francisco Tarrega (6) là một bản tango mang đậm nét truyền thống. Bản này chơi cung Xi giáng, nhịp 2/4, căng đàn hai dây Son và hai dây Re. Nếu dùng Capo chặn ngăn thứ hai thì vẫn chơi được bản tango này với bộ dây tiêu chuẩn. Âm nhạc của F.Tarrega bao giờ cũng thế, dẫu là tango, nó vẫn đặc biệt trữ tình, quyến rũ. Thật ngạc nhiên biết chừng nào khi người ta nhìn vào lịch sử bao quát của tango, không ngờ F.Tarrega đã sáng tác nên một bản tango tuyệt vời như thế ở thời điểm mà ngay chính tango vẫn còn đang vào kì trứng nước của sự phát triển. Tango của F.Tarrega là một bản nhạc đã nghe rồi thì không thể không học. Học Tango của F.Tarrega cũng như học bao bản nhạc khác của ông. Chơi mãi chơi hoài mà vẫn mới, học đi học lại, nắn nót từng nốt một mà vẫn không xong.
Tango của F.Tarrega là thế. Còn theo Roland Dyens, chủ nhân của bản Tango en Skaï thì vốn dĩ Tango en Skaï (chữ I có hai chấm trên đầu) chỉ là một "cú bông đùa". Sau khi tàn một cuộc vui vào năm 1978, ngẫu hứng ông ôm đàn, tấu bịa tặng bạn bè khách khứa một bản tango. Bảy năm sau, do bạn bè vừa khuyên vừa ép, Roland Dyens đã để nhà xuất bản Lemoine ấn hành. Tango en Skai chính thức mở cửa chào đời năm 1985 tại Paris. Tango en Skaï quả giống với một "trò đùa". Chơi Tango en Skaï cứ giống người ta đang nghịch đàn theo lối cao cấp vậy. Đúng hơn thì chơi Tango en Skai giống như biểu diễn một bài túy quyền, tỉnh trong cơn say và say ngay trong cả một nốt nhạc tỉnh khô cơ bản nhất. Chính giai điệu của nó cũng ngất ngưởng, nửa tỉnh nửa say rồi. Tango en Skaï còn được chuyển soạn thành tác phẩm cho dàn nhạc hợp xướng, được thu âm, trở thành một tác phẩm được trình diễn như một món quà tặng cho lòng ái mộ âm nhạc của công chúng khán thính giả sau những đêm diễn vậy. Roland Dyens không chỉ là tác giả của một bản Tango en Skai nổi tiếng, ông còn chuyển soạn hai bản tango nổi tiếng thế giới sang cho đàn ghi-ta rất thành công. Một bản người viết bài này được dịp nhắc tới ở phần trên bài viết này, bản còn lại là Adiós Muchachos. Bản này ông đề tặng Carlos Gardel, một ca sĩ, một nghệ sĩ tango đã quá cố.
Bên cạnh những tác phẩm ấy còn tồn tại một Tổ khúc tango (tango suite – ND) khá nổi tiếng của Astor Piazzolla viết riêng tặng đôi song tấu ghi-ta hàng đầu thế giới người Brasil, anh em Sérgio và Odair Assad. Có lẽ đó là một trong những tác phẩm trình diễn khó vào bậc nhất dành cho các đôi song tấu. Anh em nhà Assad cũng như nhiều danh cầm khác trên thế giới còn chuyển soạn nhiều tác phẩm tango của A.Piazzolla sang cho đàn ghi-ta. A.Piazzolla là nhà cách mạng tango. Tuy xung quanh những tác phẩm của ông còn gây nhiều tranh cãi nhưng tên tuổi ông đã gắn liền với kỉ phục hưng, bước trở lại với đời sống âm nhạc của tango vào thập nhiên 80. Ông mất năm 1992, để lại cho chúng ta hơn 350 tác phẩm lớn nhỏ khác nhau, trong đó có những tác phẩm tango rất nổi tiếng như Adíos Nonino, Vuelvo al sur… A.Piazzola còn để lại một bộ tổ khúc khác cũng nổi tiếng, viết cho sáo và đàn ghi-ta với những tác phẩm rất hay được trình tấu bằng ghi-ta như Quán cà phê 1930 hay Câu lạc bộ đêm 1960 (ND)…
Còn biết bao tác phẩm khác mà khi viết về tango, người ta không thể không nhắc đến như La yumba, Mi noche triste hay La bordona hay Nostalgias… Và còn vô vàn tên tuổi những soạn giả, những nhà văn thơ, nhà báo hay những nhạc sĩ, nghệ sĩ, những người đã góp công xây dựng và phục hưng thế giới tango mà chúng ta cũng không thể không viết về họ như Carlos Gardel, Carlos José Pérez, Pascual Contursi, hay nghệ sĩ dương cầm Manuel O. Campoamor soạn giả tác phẩm El sargento cabral, hay như Rosendo Mendizábal cha đẻ của El entrerriano, những tác phẩm nền móng mở ra hướng phát triển cho tango của chúng ta ngày nay.
Đành thất lỗi với công lao đóng góp của bao danh nhân nghệ sĩ nhưng trong khuôn khổ giới hạn của bài viết này, chúng tôi không thể tiếp tục đi sâu nghiên cứu hay phân tích tỉ mỉ thêm về đặc thù và lịch sử của riêng tango, cũng như chúng tôi không thể tiếp tục giới thiệu cùng bạn đọc một danh sách dài đến bất tận những tác phẩm nổi tiếng của loại hình âm nhạc đặc sắc này. Chúng tôi chỉ lướt qua, sơ bộ đôi dòng về tango nói chung và nhấn mạnh vào chủ đề tango trên cây đàn ghi-ta như vậy. Nhằm giới thiệu đến bạn đọc, những bạn đang học tập hay yêu mến gắn bó cùng cây đàn ghi-ta, những bản tango bất hủ đã được viết trực tiếp hay đã được chuyển soạn cho cây đàn ghi-ta. Đại diện trên ấy là sự tuyển chọn đã được công chúng chắt lọc qua thời gian có pha đôi dòng đánh giá chủ quan của tác giả bài viết. Chính bản thân tác giả, hai mươi năm, nhớ rồi quên rồi lại nhớ. Những bản tango cũng chuyển từ ghi-ta sang những mảnh đĩa nhựa, đĩa từ rồi lại chạy về uốn éo vặn vẹo lướt trên sáu sợi dây đàn. Tango vẫn luôn mới lạ bất ngờ.
Thế giới tango muôn mầu muôn vẻ và vô cùng phong phú. Ban đầu tiếp xúc với tango qua những tác phẩm trữ tình trên, chúng ta sẽ thêm yêu mến và gắn bó với tango, với cây đàn ghi-ta. Biết đâu mai nay trên bước đường đời, tài năng và tình yêu sẽ giúp các bạn cùng với cây đàn chinh phục trọn vẹn trái tim của khán thính giả trên sàn diễn tango, trinh phục cả những vùng đất mới lạ đang mở ra trong thế giới âm nhạc đến mê hồn kỳ ảo kia.
Vannhu
0 comments