Bàn về nhạc của Tango, có vài điều dưới đây xin được nói thêm:
- El Choclo (cái bắp ngô) (the ear of corn), bản nhạc được soạn thảo năm 1903 bởi Angel Villoldo là nhạc không có lời. Villoldo đặt tên bản nhạc là El choclo với ngụ ý hi vọng cho sự no ấm. Thời điểm ấy, nhạc và khiêu vũ tango rất thịnh hành tại khu xóm ổ chuột của thành phố Buenos Aires. El Choclo đối với 1 số dân thời đó lại có hàm ý về bộ phận sinh dục của đàn ông (dương vật) (Phallic reference: hàm ý tôn sùng)! Bản nhạc El choclo được trình diễn bằng lời lần đầu vào năm 1910 do ban nhạc Orquestra Tipica Portena. Và từ đó nổi tiếng không thua gì bản nhạc La cumparsita sau này.
- La Cumparsita là bản nhạc được viết bởi nhạc sĩ Gerardo Matos Rodriguez năm 1916. Cumparsita có nghĩa là một “bữa tiệc nhỏ” với y phục mặt nạ . Sau đó có người ăn cắp, đổi lời nhạc và ăn gian bản quyền. Gọi tên là “Si supieras” (nếu em đã biết) vào năm 1924. Matos Rodriguez phải mất 20 năm sau, sống trong cảnh nghèo túng, mới đòi lại được bản quyền.
Ban nhạc chơi tango thời sớm sủa ấy gồm có các nhạc cụ: đàn violon, bass, guitar và Clarinet. Từ khoảng 1880 đến 1910, nhạc và khiêu vũ tango được phổ thông, thịnh hành tại nơi sống tụ tập của đám đông di dân đổ đến từ Ý và Tây Ban Nha. Khiêu vũ tango thời đó được gọi là Milonga (một kiểu nhảy, tiền thân của tango ngày nay). Milonga là một điệu nhẩy pha trộn của Habanera (Cuba), “Candombe” (dân Nam Phi da màu) lẫn cùng với khiêu vũ mang đến bởi di dân Âu châu. Thủa ấy Milonga chỉ được thịnh hành tại những hàng quán khu nhân công lao động và nghèo. Phần đông là những di dân từ xa đến (Compadritos), cho nên Milonga lúc ấy bị khối thượng lưu chê bai và khinh rẻ.
Tango du nhập vào Âu châu khoảng 1912-1915, rồi từ từ pha trộn với các điệu khác như Waltz, Polka… và trở nên phức tạp hơn. Tango lấy lại được vị thế của nó và bắt đầu được phổ biến trong tầng lớp cao hơn (tầng lớp quí tộc). Tango được du nhập ngược trở về Buenos Aires với niềm hãnh diện, kiêu căng và đầy sức quyến rũ. Ban nhạc tango lúc này được có thêm đàn dương cầm và đàn Bandoneon. Bandoneon là một biến thể của đàn organ. Đàn bandoneon trông giống nhưng nhỏ hơn accordion, nhạc công để đàn trên đùi thay vì phải đeo vào vai như accordion. Một nguời Đức đã sáng tạo ra cây đàn này năm 1945, tên là Heinrich Band. Cây đàn bandoneon trở thành một nhạc cụ thiết yếu cho ban nhạc Tango sau này.
Những năm 1930 - 40 là thời vàng son của Tango, Tango trở thành mốt của Achentina, một hãnh diện quốc gia dưới thời Juan Peron.
Nói về nhạc Tango, ai cũng phải biết đến Carlos Gardel, một ca sĩ nổi danh về nhạc Tango của Achentine, Vua của Tango (1890-1935) giống như Elvis Presley của Mỹ, vua của Rock ‘n Roll. Nhiều bản nhạc chúng ta đã từng nghe của Carlos Gardel như: Mi Buenos Aieres Querido, Volver, Por una Cabeza, El dia que mi quieras…
Khoảng 1950-60, tango bị giảm sức thu hút ở đây, một phần vì giai đoạn kinh tế suy thoái, và một phần vì xáo trộn chính trị. Lời nhạc tango bị ảnh hưởng mầu sắc chính trị, cũng như tụ họp công cộng bị cấm đoán. Và thậm chí âm nhạc và khiêu vũ tango cũng bị chính quyền quân sự lúc đó kiểm soát nghiêm ngặt (1960’s). Thập niên 80-90 tango trở lại với quần chúng. Những buổi trình diễn như “Tango Argentino” và “Forever Tango” đã làm thế giới phải chú ý… nhiều đến nỗi: Nhiều nguời ước ao đi học khiêu vũ tango.
Về khiêu vũ tango:
A- STAGE TANGO: (Show Tango/Performance Tango/Fantasia Tango) là những màn biểu diễn nhẩy Tango trên sân khấu với những vũ hình phức tạp.
B- SOCIAL TANGO
1- TANGO ACHENTINA
2- BALLROOM TANGO (American & Intenational Tango)
Ngoài ra có thể kể thêm vào: Uruguayan Tango (Cũng tương tự như Tango Achentina), Finnish Tango, thậm chí cả Chinese Tango và Vietnamese Tango nữa.
Vài điều về Tango Achentina: Tango Achentina được coi là món nhẩy "thoáng" (liberal) và rất biến hóa. Tango Achentina bao gồm:
- Tango Achentina
- Milonga
- Vals Crusado
Milonga có hai nghĩa: 1- Milonga là một điệu nhảy như đã nói ở phần trên. 2- Milonga còn có nghĩa là một buổi khiêu vũ Tango Achentina.
Tango Achentina (Tango Argentino): Tango Achentina dùng bước đi của con người làm căn bản, vì ai cũng biết đi. Khác một điều là khi chúng ta đi, là đi với một bạn đồng hành (partner). Tango Achentina là nghệ thuật “bước” cùng bạn đồng hành theo âm nhạc. Tango Achentina vì thế rất thiết yếu đến vấn đề Improvisation (tạm dịch là "ứng xử"). Trong Tango Achentina không có bước CĂN BẢN... mặc dù có một tổ hợp (patterns) được dùng làm mẫu mực cho giảng dậy.
Những tên như: Camanita, Salida, Crusada, ocho, molinete, sacada, gancho, parada... không có thứ tự sắp đặt hay phỏng đoán trước như một số bước của các điệu khiêu vũ khác, như trong khiêu vũ quốc tế chẳng hạn. Người bạn nữ sẽ không tiên liệu được bước sắp tới của người nam - Tango Achentina không dùng các kiểu biên đạo (no Choreographic pattern). Người nam do đó phải quán triệt giỏi động lực để đưa dẫn (lead) nguời nữ theo được hướng nhẩy của hai người.
Tango Achentina là một tiếp cận và đối thoại thật tuyệt vời giữa 2 cá thể - người dẫn (leader) và người theo (follower) mà không cần đến ngôn ngữ. Trong Tango Achentina âm nhạc được thể hiện và diễn đạt cho ăn khớp với cảm hứng, với tốc độ và nhịp điệu của Tango. Đây là một yếu tố rất quan trọng để thực thi Tango Achentina, vì nhạc của Tango Achentina rất biến báo hơn nhạc của ballroom Tango: người nhẩy đẹp ở đây là người làm cho ta nhìn thấy được âm nhạc trên bước nhẩy. Vì nhạc Tango Achentina nhiều biến hóa nhịp nhàng, nên có rất nhiều bước để biến báo, khác với ballroom dance chịu nhiều hạn chế. Sự biến báo này có thể xuất hiện từ bước trước sang bước sau, cho phép khi nhẩy ta có thể thay đổi mỗi lúc cho ăn khớp với âm nhạc và với cảm xúc. Ta có thể chậm bước lại (delay) (một bước cho tempo two, three) ở "nhịp Adagio" (chậm) hoặc nhanh gấp 2 (2 step for one tempo, syncopation) cho "staccato". Đây là những ưu điểm của Tango Achentina.
Hai yếu tố chính là ỨNG XỬ và NHẨY VỚI NHẠC: Tango Achentina làm người nhẩy say đắm, mê mẩn và có thể bị "nhiễm độc"... họ nhẩy bằng con tim, sống động cho từng khoảnh khắc của từng bước chân.
-Milonga: Miloga là “tango nhanh” (Stacato rythm). Hai nguời dance đứng sát nhau hơn, không pausing, nhưng hay dùng syncopation (Traspie). Milonga cũng áp dụng nhũng căn bản như của Tango. Những vũ hình của milonga ít phức tạp hơn trong Tango. Nhũng bước là bước, chứ không truợt lướt nhiều như trong Tango Achentina.
- Vals Crusado: khiêu vũ tựa như Tango, nhưng với tiết tấu của nhạc valse (One beat per mesure). Như thế Vals Crusado trông mượt mà dịu dàng hơn so với Van Viên (Viennese waltz) cần liên tục 3 bước + cả quay cho một nhịp (measure). Vals Crusado không có pause, nhưng quay (giro) cả hai hướng.
Những khác biệt giữa Tango Achentina và Ballroom Tango:
Ballroom Tango:
- Trên những buổi thi đấu quốc tế.
- Thế vào đôi: Tì sát.
- Nam và nữ nhìn hai hướng khác nhau.
- Nhịp nhạc: S,S,Q,Q,S… do đó những bước hay patterns có giới hạn.
- Đánh đầu (head snap) không có trong Tango Achentina.
- Đôi nhảy nam và nữ: theo hệ thống song song (Sistema paralelo), người chân trái, người kia chân phải.
Tango Achentina:
- Thế vào đôi của hai người có thể từ rất ôm sát (close embrace) đến mở rộng. Như thế đôi nhẩy có thể thực hiện được nhiều vũ hình phức tạp hơn.
- Hướng nhìn: Chỉ có trong Tango Achentina, hai người nhìn một hướng, Nam nhìn về phía tay trái của nam, nữ nhìn về hướng tay phải của mình.
- A shape: Hai thân người tì vào nhau tạo nên dáng của hình chữ A.
- Bàn chân luôn bám sát sàn và lướt theo sàn.
- Nhịp nhạc (Rhythm): là những nhịp bước căn bản với những biến tấu tùy theo tốc độ, đặc tính, kiểu cách… không phải gò bó theo một nhịp độ cố định nào. Cho nên Tango Achentina không bị giới hạn cho nhiều bước nhẩy và patterns. Nhạc của Tango Achentina không bị qui tắc như của Ballroom tango.
- Chân trong Tango Achentina: Được phép áp dụng hệ thống song song (sistema paralelo) và hệ thống chéo chân (sistema crusado) (người nam và nữ có thể dùng chân cùng bên).
Muốn nhảy khá Tango Achentina cũng đòi hỏi thời gian… ngay cả dân chuyên nghiệp hoặc các vũ sư. Thỉnh thoảng họ cũng vẫn trở lại Buenos Aires để trau dồi và mở mang thêm kiến thức…
Cũng như các thể loại khiêu vũ khác: càng nhẩy và học, lại càng thấy muốn và phải học thêm mãi. Trong khiêu vũ không bao giờ hết câu hỏi cũng như chưa bao giờ thỏa mãn hoàn toàn những câu trả lời.
Quangngo
0 comments